3. Quá trình phát triển của văn minh Đại Việt
Để dạy và học mục này chúng ta sử dụng di sản: Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long và khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu
CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ CÁC EM HỌC SINH
ĐẾN VỚI DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI:
GIỚI THIỆU KHU DI TÍCH HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội. Di chỉ khảo cổ này là minh chứng sống động cho nền văn minh châu thổ sông Hồng trong suốt 13 thế kỷ: bắt đầu từ thời tiền Thăng Long vào khoảng thế kỷ VII, đi qua thời Đinh và tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, hậu Lê, đến triều Nguyễn và tồn tại mãi đến ngày nay. Đầu tiên mời bạn đến với không gian trưng bày lịch sử xây dựng Hoàng thành Thăng Long.
👉Tìm hiểu thông tin, hình ảnh về các hiện vật văn minh Đại Việt trong môi trường thực tế ảo tăng cường (AR) theo link: Hiện vật văn minh Đại Việt
A. Lịch sử Hoàng thành Thăng Long
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều Lý. Tháng 7 mùa thu năm 1010, nhà vua công bố thiên đô chiếu (chiếu dời đô) để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La. Ngay sau khi dời đô, Lý Công Uẩn đã cho gấp rút xây dựng Kinh thành Thăng Long, đến đầu năm 1011 thì hoàn thành. Khi mới xây dựng, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam trùng thành quách gồm: vòng ngoài cùng gọi là La thành hay Kinh thành, bao quanh toàn bộ kinh đô và men theo nước của 3 con sông: sông Hồng, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Kinh thành là nơi ở và sinh sống của dân cư. Vòng thành thứ hai (ở giữa) là Hoàng thành, là khu triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều. Thành nhỏ nhất ở trong cùng là Tử Cấm thành, nơi chỉ dành cho vua, hoàng hậu và số ít cung tần mỹ nữ. Nhà Trần sau khi lên ngôi đã tiếp quản Kinh thành Thăng Long rồi tiếp tục tu bổ, xây dựng các công trình mới. Sang đến đời nhà Lê sơ, Hoàng thành cũng như Kinh thành được xây đắp, mở rộng thêm ra. Trong thời gian từ năm 1516 đến năm 1788 thời nhà Mạc và Lê trung hưng, Kinh thành Thăng Long bị tàn phá nhiều lần. Đầu năm 1789, vua Quang Trung dời đô về Phú Xuân, Thăng Long chỉ còn là Bắc thành. Thời Nguyễn, những gì còn sót lại của Hoàng thành Thăng Long lần lượt bị các đời vua chuyển vào Phú Xuân phục vụ cho việc xây dựng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi ngự giá Bắc thành. Năm 1805, vua Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng thành cũ và cho xây dựng Thành Hà Nội theo kiểu Vauban của Pháp với quy mô nhỏ hơn nhiều. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn, vua Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Khi chiếm xong toàn Đông Dương, người Pháp chọn Hà Nội là thủ đô của liên bang Đông Dương thuộc Pháp và Thành Hà Nội bị phá đi để lấy đất làm công sở, trại lính cho người Pháp. Từ năm 1954, khi bộ đội ta tiếp quản giải phóng thủ đô thì khu vực Thành Hà Nội trở thành trụ sở của Bộ quốc phòng. Như vậy giá trị đầu tiên của khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội thể hiện ở chỗ nó gần như là một “bộ lịch sử sống” chảy suốt theo cả chiều dài lịch sử hơn 10 thế kỷ của Thăng Long- Hà Nội, kể từ thành Đại La thời tiền Thăng Long đến thời đại ngày nay.
B. Công trình kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội có diện tích 20ha, bao gồm khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và các di tích còn sót lại trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như Bắc Môn, Đoan Môn, Hậu Lâu, rồng đá điện Kính Thiên, nhà con rồng, nhà D67 và cột cờ Hà Nội. Cụm di tích này được bao bọc bởi 4 con đường: phía bắc là đường Phan Đình Phùng, phía nam là đường Điện Biên Phủ, phía đông là đường Nguyễn Tri Phương và phía tây là đường Hoàng Diệu.
Kỳ Đài, hay thường được gọi là Cột cờ Hà Nội. Đây là di tích có kết cấu dạng tháp, được xây dựng dưới triều Nguyễn từ năm 1805 đến 1812, cùng thời với Hoàng thành Thăng Long. Cột cờ Hà Nội là di tích được xây dựng năm 1812 dưới triều Gia Long. Cột cờ cao 60 m, gồm có chân đế, thân cột và vọng canh. Chân đế hình vuông chiếm một diện tích là 2007 m² và gồm 3 cấp thóp dần lên. Mỗi cấp đều có tường hoa với hoa văn bao quanh. Từ mặt đất lên tới chân cấp thứ 2 phải leo 18 bậc tại mặt phía Đông và mặt phía Tây. Muốn từ cấp 2 lên cấp 3 cũng phải leo 18 bậc ở hai cửa hướng Đông và Tây. Còn cấp thứ 3 có 4 cửa Đông, Tây, Nam, Bắc (với các tên “Nghênh húc” (Đón ánh nắng ban mai), “Hồi quang” (ánh nắng phản chiếu), “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng) và từ cạnh dưới lên tới cạnh trên phải qua tới 14 bậc cầu thang. Công trình Cột cờ Hà Nội vẫn đứng vững chãi, kiên cố đến ngày nay, và trở thành một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội.
Hình ảnh về cột cờ Hà Nội
Đoan Môn - cổng chính dẫn vào Hoàng thành. Đoan Môn đã xuất hiện từ thời Lý, nhưng kiến trúc mà chúng ta thấy ngày nay là do nhà Lê xây dựng vào thế kỷ XV và nhà Nguyễn tu bổ vào thế kỷ XIX. Đoan Môn là tường thành phía Nam, được xây theo lối kiến trúc cuốn vòm cân xứng gần như tuyệt đối qua “trục thần đạo”, với 5 cổng thành: cổng giữa to nhất dành cho vua, 4 cổng còn lại dành cho quan lại, hoàng thân, quốc thích.
Hình ảnh Đoan Môn tại Hoàng Thành Thăng Long
Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm năm cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng 1812 – 1814, triều Nguyễn Gia Long phá, xây Cột Cờ (nay vẫn còn sừng sững). Năm 2002, giới khảo cổ học Việt Nam được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy “lối xưa xe ngựa” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu khai quật tiếp, sẽ có thể thấy cả con đường từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên ở phía Bắc và cửa Tây Nam thành Hà Nội.
Bắt đầu từ Đoan Môn, băng qua một khoảng sân lớn gọi là Long Trì, rồi đến Điện Kính Thiên – hạt nhân chính trong tổng thể di tích Hoàng thành.
Điện Kính Thiên được xây vào năm 1428, là nơi vua Lê Thái Tổ đăng cơ, về sau trở thành nơi cử hành các nghi lễ long trọng của triều đình, các buổi thiết triều và đón tiếp sứ giả nước ngoài. Điện Kính Thiên là di tích trung tâm, là hạt nhân chính trong tổng thể các địa danh lịch sử của thành cổ Hà Nội. Điện Kính Thiên chiếm vị trí trung tâm của khu di tích. Trước điện Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột Cờ Hà Nội, phía sau có Hậu Lâu, Cửa Bắc, hai phía đông và tây có tường bao và mở cửa nhỏ. Dấu tích điện Kính Thiên hiện nay chỉ còn là khu nền cũ.
Hình ảnh phục dựng mô hình Điện Kính Thiên ở Hoàng Thành Thăng Long
Năm 1816, vua Gia Long cho xây dựng lại điện, sử dụng làm nơi hành cung cho các vị vua Nguyễn tuần du ra Bắc. Năm 1841, vua Thiệu Trị đã đổi tên điện thành Long Thiên.
Cuối thế kỷ 19, điện bị thực dân Pháp phá bỏ và xây trụ sở pháo binh. Vào tháng 10/2004, Điện Kính Thiên trong Hoàng thành Thăng Long được UBND TP. Hà Nội quản lý và bắt đầu mở cửa đón khách du lịch. Năm 2020, TP. Hà Nội đã đưa ra kế hoạch nghiên cứu phục dựng Điện Kính Thiên.
Trên bờ nóc có đôi rồng chầu mặt trời đắp nổi rất tinh xảo. Điện được bao quanh bởi khoảng sân rộng và có lan can bao bọc khắp 4 phía.
Hướng chính Nam của điện có Thềm Rồng 10 bậc, được xây bằng phiến đá hộp lớn, chia 3 lối đi đều nhau với 4 con rồng đá. Hai bên bậc thềm có 2 con rồng đá uy nghi, biểu tượng của nghệ thuật điêu khắc đỉnh cao thời Lê sơ.
Bệ rồng ở Điện Kính Thiên là một tuyệt tác điêu khắc thời Lê sơ. Rồng đá được chạm trổ tinh xảo bằng đá xanh, có phần đầu nhô cao, đôi mắt to tròn, cặp sừng dài có nhánh, bườm rồng uốn lượn sống động. Thân rồng rồng dài 3,4m, uốn 7 khúc, chân rồng 5 móng, lưng rồng dài có nhiều đường vân nhấp nhô như vẫn mây, tia lửa. Tháng 12/2020, rồng đá trước thềm Điện Kính Thiên được công nhận là Bảo vật quốc gia của Việt Nam nhờ tính nghệ thuật và tính sáng tạo đặc biệt của thời Lê Sơ.
Hình ảnh bệ rồng ở Điện Kính Thiên
Hậu Lâu, hay còn được gọi là Tĩnh Bắc Lâu, là tòa lầu được xây phía sau Điện Kính Thiên, khi xưa là chốn hậu cung – nơi sinh hoạt của hoàng hậu, công chúa, và các cung tần, mỹ nữ. Lầu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc lâu) là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc điện Kính Thiên là hành cung của thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau hành cung nhưng lại là phía bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới có tên là Tĩnh Bắc lâu và còn có tên là Hậu lâu (lầu phía sau), hoặc là lầu Công chúa do cho rằng đây là nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống vua Nguyễn ra ngự giá Bắc thành.
Hậu Lâu xuất hiện từ sau đời hậu Lê, được xây theo kiến trúc hình hộp với ba tầng, kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Pháp. Nét đặc trưng nhất của Hậu Lâu là độ dày của các bức tường, khiến các phòng luôn mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông.
Cuối thế kỉ 19, Hậu Lâu bị hư hỏng nặng, và được người Pháp cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay.
Hình ảnh Hậu Lâu hiện nay tại Hoàng Thành Thăng Long
Cổng hành cung là nơi canh gác của quân lính, nhằm giữ an toàn cho vua và hoàng tộc. Mỗi cổng hành cung là một công trình có thiết kế cầu kỳ, vững chãi, làm tôn vẻ tráng lệ của cung điện. Trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội hiện còn tồn tại tám cổng hành cung như thế. Chính nhờ những cổng hành cung này mà công việc xác định tọa độ các cung điện và lớp tường thành được chính xác hơn.
Hình ảnh một cổng hành cung trong Hoàng Thành Thăng Long
Chính Bắc Môn còn gọi là Bắc Môn hay Cửa Bắc, là cổng thành duy nhất còn lại của thành Hà Nội thời Nguyễn, được xây dựng năm 1805. Cổng quay hướng bắc chếch tây 15 độ, dạng hình thang. Mép cửa kè đá hình chữ nhật, riềm trên bằng đá trang trí viền cánh sen. Phía trên vòm cửa chính có gắn tấm biển đá ghi ba chữ Hán “Chính Bắc Môn”, riềm biển đá trang trí nổi hoa dây. Bên cạnh có gắn một tấm biển đá đề ngày 25/4/1882 và 2 vết đạn đại bác, dấu vết cuộc xâm lược Bắc Kỳ của thực dân Pháp và sự phản kháng của quân dân ta thời đó.
Mặt phía Nam có riềm trên trang trí hoa sen bằng những phiến đá ghép lại, cánh sen to, đầu tù, trong có trang trí ba lớp vân xoắn, giữa thân cánh sen thể hiện một đao lửa. Phía này cũng đặt hai máng xối bằng đá trang trí văn mây xoắn.
Dù Bắc Môn là công trình do nhà Nguyễn xây dựng, nhưng dưới chân cổng thành sừng sững này là tầng tầng lớp lớp di chỉ thành quách từ các triều đại trước đó, khẳng định sự liên tục trong lịch sử ngàn năm của Hoàng thành.
Hình ảnh Di tích Bắc Môn trước khi trùng tu.
Năm 1998, tại di tích Bắc Môn, ở độ sâu 1,66m và 2,20m các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy nhiều dấu tích kiến trúc, trong đó có vết tích của một đoạn tường thành xây bằng đá và gạch vồ. Hiện nay trên Vọng lâu của Bắc Môn thờ hai vị tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã tuẫn tiết, hy sinh khi thành Hà Nội rơi vào tay quân Pháp. Nhiều người dân vẫn thường xuyên lên vọng lâu Bắc Môn để thắp nhang tưởng nhớ hai vị anh hùng lẫm liệt – những người được hậu thế kính cẩn đặt tên cho hai con đường hiện đại chạy hai bên tả hữu vòng thành cổ năm xưa.
👉Tìm hiểu thông tin, hình ảnh về các triều đại trong môi trường thực tế ảo tăng cường (AR) theo link: Tour tham quan ảo 360 Phòng trưng bày Vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc tại Hoàng Thành Thăng Long - 360 Virtual Tour of dynasties: Lý, Trần, Lê, Mạc at Thăng Long Citadel - Trưng bày online Hoàng Thành Thăng Long - Online exhibition of The Imperial Citadel of Thang Long (hoangthanhthanglong.vn)
C. Một số hiện vật tại Hoàng thành Thăng Long được số hóa.
1. Thành bậc Điện Kính
- Link vào học tập và nghiên cứu: Thành bậc Điện Kính Thiên thời Lê Trung Hưng - Trưng bày online Hoàng Thành Thăng Long - Online exhibition of The Imperial Citadel of Thang Long (hoangthanhthanglong.vn)
2. Đầu rồng thời Trần bằng gốm
- Link vào học tập và nghiên cứu: Đầu rồng thời Trần, Hoàng thành Thăng Long - Trưng bày online Hoàng Thành Thăng Long - Online exhibition of The Imperial Citadel of Thang Long (hoangthanhthanglong.vn)
3. Bộ ngói úp nóc hình lá bồ đề
- Link vào học tập và nghiên cứu: Bộ ngói úp nóc gắn lá đề trang trí rồng, đất nung, thời Lý, thế kỷ XI - XII - Trưng bày online Hoàng Thành Thăng Long - Online exhibition of The Imperial Citadel of Thang Long (hoangthanhthanglong.vn)
.jpg)

.jpg)

.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)

Nhận xét
Đăng nhận xét